Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014

Vé máy bay đi Mỹ khuyến mại vô cùng hấp dẫn tại Beetours Việt Nam

Vé máy bay đi Mỹ




đại lý chỉ định chính thức của Vietnam Airlines, chúng tôi sẽ đại diện cho hãng Hàng không hãng cung cấp các vé máy bay chính hãng trực tiếp vé máy bay đi Mỹ tới hành khách theo đúng Giá vé và thuế Mỹ và các quy trình phục vụ của hãng đề ra. Đồng thời, Beetours sẽ chủ động và linh hoạt nhằm đáp ứng yêu cầu cao của khách hàng.

Nhân viên tư vấn cho bạn đi Mỹ thuận lợi hơn, tiết kiệm thời gian hơn

Đội ngũ nhân viên bằng sự nhiệt tình của mình sẽ tư vấn tìm đường bay cho bạn, đảm bảo giá vé bay qua Mỹ ưu đãi nhất, hành trình bay thuận tiện về giờ giấc. Cũng vì vậy, Beetours cũng cung cấp thông tin bằng tiếng Anh và Việt dành cho người chưa từng đi. Ngay cả với nhiều người đã từng đến Mỹ nhiều lần trong năm, sự chu đáo này vẫn sẽ trở nên hữu ích cho họ
Đặc biệt với vé khứ hồi tới Mỹ thì sự giảm thiểu thời gian bay, cung đường bay là nhân tố đầu tiên cần xem xét. Thời gian tới Mỹ không phải là ngắn. Vì vậy cần có lộ trình hợp lý, rút ngắn thời gian bay, chi phí thấp nhất. Chúng tôi sử dụng hệ thống phân phối toàn cầu GDS (đồng thời sử dụng phương thức kiểm tra và kết hợp giá trực tiếp thủ công để có được hành trình hợp lý nhất.

Khỏi lo lắng về thủ tục nhập cảnh Mỹ khi mua vé máy bay với chúng tôi

Bạn còn băn khoăn về vé máy bay này ? Chuyên gia của chúng tôi sẽ thực hiện việc chăm sóc khác hàng trước, trong và sau chuyến bay của bạn. Thời hạn hộ chiếu của bạn sẽ được chúng tôi gửi tin nhắn nhắc bạn 1 tháng trước khi hết hạn. Bạn cũng có thể hỏi trực tiếp Beetours Vietnam để có được những tư vấn tốt nhất nhé.
Đối với người cao tuổi tới Mỹ, các quy định về thủ tục xin thị thực có thể làm cho bạn bối rối. đừng lo ! Nhân viên tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn vượt qua điều đó. Song song với đó những thông tin cần thiết sẽ được gửi đến bạn sớm nhất. Tất cả vì chuyến đi tốt đẹp của bạn.

Beetours áp dụng tiêu chuẩn nào của đi Mỹ khi là đại lý của hãng ?

Đội ngũ nhân viên của chúng tôi đều phải đạt chứng chỉ TTP (Travel & Tourism Professional) do Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế (IATA) đào tạo và áp dụng với hệ thống vé của đi Mỹ.
Quy định về giá được chúng tôi áp dụng linh hoạt nhằm đảm bảo giá vé cạnh tranh đồng thời đáp ứng được yêu cầu của hàng không đi Mỹ. Là đại lý chỉ định chính thức của đi Mỹ tại Hà Nội, Beetours Việt Nam sẽ tiếp tục được hưởng những chính sách ưu đãi từ đi Mỹ.
Vé máy bay đi Mỹ

Cơ sở kỹ thuật hiện đại cho việc cung cấp vé máy bay đi Mỹ của Beetours Việt Nam.

Chúng tôi triển khai thông qua hệ thống phân phối toàn cầu (travel port) cho sản phẩm vé máy bay của đi Mỹ:
- Hệ thống phân phối toàn cầu Galileo
- Hệ thống xuất vé máy bay Apollo
- Hệ thống xuất vé máy bay Worldspan

Đa dạng và nhanh chóng trong thanh toán vé máy bay đi Mỹ

Khi mua vé máy bay đi Mỹ trực tiếp trên hệ thống hoặc tại phòng vé với rất nhiều lựa chọn thuận tiện cho việc thanh toán của khách hàng. Trong đó thanh toán trực tiếp tại địa chỉ quý khách yêu cầu được nhiều khách hàng lựa chọn như một cách thanh toán thuận tiện nhất. Vui lòng xem thêm chi tiết hướng dẫn thanh toán tại đây.
Đặt vé máy bay Mỹ với Beetours, bạn sẽ nhận thấy những giá trị cốt lõi sau:
  • Thủ tục thanh toán nhanh gọn và thuận tiện
  • Vé máy bay Mỹ được đặt và giữ chỗ miễn phí trên website của chúng tôi trong 48h
  • Có sẵn nhiều đường bay hợp lý cho phép lựa chọn với nhiều mức giá cạnh tranh
  • Ưu đãi 10% giá trị bảo hiểm du lịch toàn cầu hãng AIG
  • Tư vấn thủ tục hộ chiếu và visa nhập cảnh Mỹ nhanh chóng, thuận tiện
 (Nguồn Beetours.com)


 Xem thêm về vé máy bay khuyến mại khác:
 

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2014

Chương trình ưu đãi giá vé đặc biệt từ Hà Nội đi các nước Châu Âu với chỉ 6.291.000 VND


Chương trình ưu đãi giá đặc biệt vé máy bay từ Hà Nội đến EURO của FINNAIR
Vé máy bay Hà Nội - Châu Âu

Chương trình ưu đãi giá vé đặc biệt từ Hà Nội đi các nước Châu Âu với chỉ

6.291.000 VND

Hãng FINNAIR vừa đưa ra Chương trình ưu đãi giá đặc biệt vé máy bay từ Hà Nội đến Châu âu. Dựa trên đó, người mua chỉ mất 6.291.000 VND /vé dành cho đối tượng khách hàng là du học sinh, giảm tới. 24 % so với giá vé thông thường. Giá vé chỉ được áp dụng trong thời gian sử dụng là 7 ngày kể từ ngày bay lượt đi. Đây được xem là chương trình nhằm nâng cao chất lượng của FINNAIR dành cho đối tượng khách này.
Theo chương trình này, vé máy bay khuyến mại chặng từ Hà Nội tới Châu âu được áp dụng cho những vé có thời hạn xuất vé từ 04/03/2014 đến hết ngày 23/09/2014 và yêu cầu của vé được sử dụng trong khoảng thời gian từ 02/06/2014 đến 23/09/2014.
Một số điều kiện đi kèm của vé này gồm:
- Đổi ngày bay: Trước ngày khởi hành: 50USD/lần
- Khác: Chỉ áp dụng cho khách là sinh viên từ 12 - 34 tuổi, chỉ áp dụng cho chuyến bay thẳng Hà Nội - HELSINKI

Hãng hàng không FINNAIR thông báo, chỉ có một số ít các đại lý lớn mới được phép triển khai bán chương trình này. Hành khách có thể xem tại website của Tổng đại lý Beetours Vietnam (http://beetours.com) hoặc gọi tổng đài văn phòng Beetours :
Call Center Beetours Vietnam

Vé máy bay đi quốc tế tới 3708 điểm đến trên toàn thế giới.



Vé máy bay đi quốc tế tới 3708 điểm đến trên toàn thế giới.

Tại sao các bạn nên đặt vé tại chúng tôi ?

Đơn giản bởi Chúng tôi là những Chuyên gia trong tư vấn đường bay, kết hợp giá vé. Với hệ thống đặt vé sử dụng công nghệ phân phối toàn cầu GDS, bạn sẽ dễ dạng có được quốc tế với giá rẻ, hành trình bay thuận tiện. Những lợi ích cốt lõi mà bạn dễ dàng tìm thấy ở dịch vụ quốc tế của chúng tôi.

Mọi thông tin liên hệ:

Văn phòng Beetours Việt Nam:

Địa chỉ: Dragon Building, Số 3 Đỗ Hành, Hai Bà Trưng, Hà Nội
ĐT: 04-3978-5635 | Fax: 04-3978-5636
Giờ làm việc:
Chấp nhận thanh toán: Visa, Master, JCB, AmericanExpress, VCB Connect24
Đây là website Chính hãng Beetours Việt Nam, mua Vé máy bay xin gọi
Call Center: 04-3978-5635 | 0944-555-900



Tập đoàn Ngân hàng BNP Paribas tư vấn thu xếp tài chính mua máy bay cho VietJetAir

(Singapore, 13/02/2014) - Tại triển lãm hàng không (AirShow), ngân hàng BNP Paribas và VietJetAir đã ký kết thỏa thuận hợp tác trong đó BNP Paribas được chỉ định tham gia tư vấn thu xếp tài chính 3 chiếc máy bay mà VietJetAir sẽ nhận trong năm 2014 và 2015 theo giá niêm yết (trong hợp đồng với Airbus) là 270 triệu Đô la Mỹ. Hai bên cũng nhất trí BNP Paribas sẽ là đối tác chiến lược của VietJetAir trong các kế hoạch thu xếp tài chính khác trong tương lai.

BNP Paribas là Ngân hàng hàng đầu thế giới trong lĩnh vực tài chính hàng không, phục vụ 128 hãng hàng không và các công ty cho thuê máy bay trên thế giới. Chỉ riêng trong năm 2012-1013, BNP Paribas đã tham gia tư vấn và thu xếp tài chính cho 125 máy bay các loại. Trong năm 2012 BNP Paribas đã giúp thu xếp các khoản vay giá trị tới 7,24 tỷ Đô la Mỹ.

Đây là một trong những bước tiếp theo của VietJetAir để thực hiện hợp đồng đặt mua và thuê 100 máy bay vừa ký kết với Airbus tại Singapore Airshow vài ngày vừa qua.

Đại diện Ngân hàng BNP Paribas cho biết: “Ở Việt Nam, vận tải hàng không là một yếu tố quan trọng của nền kinh tế, tạo cơ sở hạ tầng vững chắc cho sự phát triển của quốc gia. Chúng tôi vinh dự hợp tác với VietJetAir để thực hiện đơn hàng mua máy bay đầu tiên này. Chúng tôi vô cùng hào hứng với dự án này bởi những chiếc máy bay đầu tiên mà chúng tôi tham gia tư vấn thu xếp tài chính sẽ được giao trong năm nay”

VietJetAir là hãng hàng không tư nhân đầu tiên và được yêu thích tại Việt Nam và khu vực, hoạt động cả thị trường nội địa và quốc tế. Hiện nay VietJetAir đang khai thác 11 chiếc tàu bay dòng A320, mạng lưới hoạt động phủ khắp với 16 đường bay tại Việt Nam và 4 đường bay quốc tế. Theo kế hoạch, hãng sẽ mở rộng mạng bay quốc tế đến các nước trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Hình ảnh trong buổi ký kết:



Ông Đinh Việt Phương – Phó Tổng giám đốc VietJetAir và Ông Nicolas Parrot -Đồng Giám đốc Giao thông, Vận tải, Ngân hàng Đầu tư Khu vực Châu Á Thái bình dương, Ngân hàng BNP Paribas thực hiện nghi thức ký kết.


Hai bên cũng nhất trí BNP Paribas sẽ là đối tác chiến lược của VietJetAir trong các kế hoạch thu xếp tài chính khác trong tương lai.


Nguồn: baotintuc.vn

Xem thêm bài viết về Hàng không

35.000 vé “Qùa tặng mùa yêu thương” đã tìm được chủ nhân

(VietJetAir – Tp. HCM - ngày 15/1/2014) – Kết thúc 3 ngày vàng của chương trình “Quà tặng mùa yêu thương”, 35.000 cơ hội bay với giá cực sốc chỉ từ 9.000 đồng của VietJetAir đã hết sớm. Chương trình áp dụng cho tất cả các chặng bay (bao gồm quốc tế và trong nước) và cho thời gian bay từ 13/2 đến 20/5/2014 (trừ các ngày lễ, Tết). Trong ngày Valentine, các hành khách của VietJetAir còn rất hào hứng với cuộc hẹn hò thú vị cùng Người đẹp Tú Vi – nữ diễn viên trong phim “Quả tim máu” và Hot boy Harry Lu trên chuyến bay tình yêu và vui vẻ nhận quà tặng ngọt ngào từ các tiêp viên trẻ trung, xinh đẹp.

 
Bay cùng VietJetAir để nhận bất ngờ thú vị mỗi ngày

Bạn Trang Nhung, một hành khách 28 tuổi ở Hà Nội may mắn đã mua được vé 9.000 đồng cho chuyến đi TP. HCM cùng một nửa yêu thương của mình chia sẻ: “Nhờ có VietJetAi mà tôi và anh ấy đã có được chuyến đi đáng nhớ. Không chỉ may mắn tìm được vé 9.000 đồng,  chúng tôi còn được tận hưởng không khí lãng mạn trên chuyến bay Tình Yêu mà VietJetAir chắc phải rất dày công tổ chức. Chúng tôi hy vọng VietJetAir sẽ có nhiều chương trình hấp dẫn như thế nữa ”.

Là “Hãng hàng không có Dịch vụ vận chuyển thân thiện và chế độ khuyến mại tốt nhất Việt Nam” theo bình chọn qua chương trình báo cáo nghiên cứu thị trường của Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, VietJetAir thường xuyên có những chương trình khuyến mại hấp dẫn và các hoạt động sôi nổi, bất ngờ trên các chuyến bay, đem lại niềm vui và nhiều cơ hội bay giá rẻ cho hành khách.

Hãy đăng ký để nhận thông tin khuyến mại thường xuyên của Hãng tại website www.vietjetair.com và tận hưởng không khí vui tươi trên những chiếc tàu bay mới, ghế da êm ái, lựa chọn 9 món ăn nóng ngon lành cùng hàng ngàn ưu đãi tuyệt vời cùng VietJetAir.

VietJetAir có mạng lưới hoạt động phủ khắp với 16 đường bay tại Việt Nam và 4 đường bay quốc tế. Sắp tới, VietJetAir sẽ tiếp tục mở rộng mạng bay trong nước và các vùng kinh tế trọng điểm của Châu Á – Thái Bình, mang đến cho người dân và du khách thêm nhiều sự lựa chọn về chặng bay và thời gian bay.

Nguồn: baotintuc.vn

Xem thêm bài viết về Hàng không

Gia nhập và phát triển cùng VietJetAir

1. Tiếp viên Hàng không.
- Job code: 140201
- Location: SGN
- Nhiệm vụ:
Đảm trách các công tác phục vụ hành khách trên các chuyến bay. Hướng dẫn và theo dõi công tác an toàn cho hành khách trong suốt chuyến bay, cung cấp các dịch vụ khác như: ăn uống, hỗ trợ các hành khách cần chăm sóc đặc biệt như trẻ em, phụ nữ có thai, người tàn tật, người già.
- Yêu cầu:
Độ tuổi từ 20 đến 30.
- Nam cao từ 1m70 - 1m80.
- Nữ cao từ 1m60 - 1m75.
- Tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên.
- Ngoại ngữ: Anh văn tối thiểu đạt Toeic 400 điểm.
- Khả năng truyền đạt tốt.
- Có khả năng thích ứng các môi trường năng động, linh hoạt.

2. Chuyên viên dịch vụ hành khách
- Mã công việc: 140202
- Số lượng: 02/sân bay
- Nơi làm việc: Cam Ranh, Huế, Buôn Mê Thuột
Yêu cầu chung:
- Có các văn bằng được công nhận như Cử nhân trong lĩnh vực Kinh Doanh, Hành Chính, Quản Trị, Kế Toán, Tin Học, Thống Kê hoặc văn bằng tương đương.
- Có tối thiểu 03 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hàng không, dịch vụ khách hàng, lữ hành và lưu trú.
- Có khả năng thích ứng công việc tốt trong môi trường làm việc thường xuyên thay đổi.
- Chấp nhận đi công tác khi có yêu cầu.
- Có các ưu điểm cá nhân như: thân thiện, chính chắn, khiêm tốt, chân thật, tỉ mỉ, chủ động, khả năng làm việc tốt trong môi trường áp lực.
- Có kỹ năng nói và viết tiếng Việt, Anh thành thạo.
- Có kỹ năng vi tính tốt và thành thạo sử dụng các phần mềm: Excel, Word, Outlook, và Access.
- Có khả năng duy trì tính tự tin, lịch thiệp và thận trọng trong giao tiếp.
- Có kỹ năng truyền đạt và giao tiếp tốt nhằm thực hiện hiệu quả công việc với các loại đối tượng hành khách khác nhau.
- Làm việc theo ca.

3. Nhân viên kho - chỉ tuyển nam
- Mã Công việc: 140203
- Số lượng: 01
- Nơi làm việc: TP. HCM
Nhiệm vụ:
- Kiểm tra hàng hóa và chứng từ nhập kho
- Sắp xếp hàng hóa trong kho
- Kiểm tra tình trạng kho và điều kiện bảo quản hàng hóa
- Xuất hàng và nhập hàng theo quy trình
- Trợ giúp trưởng bộ phận trong các vấn đề liên quan đến kho.
Yêu cầu chung:
- Nam, tuổi từ 20 đến 25
- Sức khỏe tốt
- Tốt nghiệp Trung học phổ thông trở lên
Yêu cầu thời gian làm việc: sẽ được bố trí làm theo ca.

4. Lái xe
- Mã công việc: 140204
- Sô lượng: 10
- Nơi làm việc: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội
Yêu cầu chung:
- Nam tuổi từ 25-35
- Có chứng chỉ lái xe dấu D trở lên
- Ưu tiên ứng viên có kinh nghiệm lái xe trong sân đỗ

5. Chuyên viên thị trường khu vực miền trung
- Mã Công việc: 140205
- Số lượng: 01
- Nơi làm việc: Đà Nẵng và khu vực miền Trung
Nhiệm vụ:
- Theo dõi và thu thập thông tin thị trường.
- Phân tích thông tin, xác định và đánh giá nhanh chóng các nguyên nhân, đề xuất giải pháp hợp lý nhằm xúc tiến hoạt động bán đạt mục tiêu doanh thu.
- Phát triển, theo dõi, đánh giá và hỗ trợ các kênh bán.
- Xử lý các tình huống liên quan đến nghiệp vụ bán.
- Phối hợp thực hiện các hoạt động quản cáo, xúc tiến bán tại thị trường
- Các công việc khác theo sự phân công của trưởng bộ phận
Yêu cầu chung
- Tốt nghiệp đại học trở lên
- Tiếng Anh giao tiếp tốt
- Có kỹ năng giao tiếp
- Ưu tiên ứng viên có kinh nghiệm liên quan đến thị trường và quản lý.

6. Nhân viên nhập dữ liệu
- Mã Công việc: 140206
- Số lượng: 03
- Nơi làm việc: TP. Hồ Chí Minh
Nhiệm vụ:
- Thu thập và cập nhật dữ liệu kỹ thuật tàu bay vào hệ thống.
- Tổ chức các hoạt động lưu trữ và cập nhật thư viện kỹ thuật một cách hiệu quả.
- Nhận và cập nhật vào hệ thống thư viện kỹ thuật các tài liệu kỹ thuật từ nhà sản xuất máy bay, đông cơ và thiết bị,
- Chuyển các tài liệu mới hoặc được cập nhật đến các bộ phận liên quan và cập nhật tài liệu kỹ thuật lên tàu bay.
- Trợ giúp Giám đốc Kỹ thuật soạn thảo các yêu cầu đặt mua tài liệu để chuyển cho bộ phận thu mua giải quyết.
Yêu cầu chung:
- Tốt nghiệp Đại học
- Sử dụng thành thạo vi tính văn phòng.
- Có kỹ năng trong việc sắp xếp, lưu trữ tài liệu.
- Thành thạo kỹ năng nghe, nói, đọc và viết tiếng anh

7. Chuyên viên hệ thống phân phối toàn cầu (Global Distribution System - GDS)
- Mã Công việc: 140207
- Số lượng: 02
- Nơi làm việc: TP. HCM
Nhiệm vụ:
- Hoàn tất các hợp đồng tham gia GDS và các hệ thống liên quan
- Triển khai thực hiện các hợp đồng đồng
- Phối hợp hoạt động của các đơn vị trong Vietjet để kết nối vào hệ thống GDS
Yêu cầu chung:
- Tốt nghiệp Đại học trở lên
- Có kinh nghiệm làm việc trong ngành hàng không
- Nói và viết tiếng Anh thành thạo, có khả năng soạn thảo hợp đồng
- Am hiểu kỹ thuật kết nối các hệ thống, hệ thống GDS

8. Nhân viên hành chính
- Mã công việc: 140208
- Số lượng: 01
- Nơi làm việc: TP. Hồ Chí Minh
Nhiệm vụ:
- Quản lý lịch sử dụng phòng họp, sử dụng xe công ty
- Chịu trách nhiệm đặt phòng khách sạn, vé máy bay cho cán bộ công ty đi công tác.
- Lưu trữ công văn đi và đến.
- Các công việc khác theo sự phân công của trưởng bộ phận
Yêu cầu chung:
- Tốt nghiệp Cao đẳng trở lên
- Có kỹ năng nói và viết tiếng Anh thành thạo.
- Có kỹ năng vi tính tốt và thành thạo sử dụng các phần mềm: Excel, Word, Outlook.
- Có khả năng duy trì tính tự tin, lịch thiệp và thận trọng trong giao tiếp.
Hình thức tuyển dụng:
- Ứng viên đáp ứng yêu cầu vui lòng nộp hồ sơ cho phòng Nhân sự (ghi rõ vị trí ứng tuyển) trước ngày 24/02/2014
Nguồn: baotintuc.vn

Xem thêm bài viết về Hàng không

Các Hãng hàng không bán tiếp vé Tết

(Xem thêm thông tin về Hàng không quốc gia)

Ảnh minh họa: internet

Đối với chặng bay có nhu cầu vé cao nhất là TP.HCM – Hà Nội, VietJet Air dành riêng hơn 60.000 vé với mức giá từ 1.030.000 đồng/lượt.

Cũng trong dịp Tết năm nay, VietJet Air đã tăng chuyến chặng TP.HCM – Đà Nẵng lên 42 chuyến khứ hồi/tuần (tương đương 7.560 chỗ).

Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) cũng đang mở bán vé Tết. Hiện, hãng này vẫn còn vé của một số chặng nhưng giá khá cao (gần 3 triệu đồng/chiều) và chủ yếu bay đêm.

C.Hảo


Nguồn: Báo Phunuonline.com.vn

Xem thêm bài viết về Hàng không

Các hãng hàng không châu Á trước quyết định của Trung Quốc

(Xem thêm thông tin về tiếp viên hàng không)

Hàng không Nhật Bản (JAL) - Ảnh: Airplane.photo.com

Cuối tuần qua, Trung Quốc đã công bố tọa độ ADIZ. Khu vực này - rộng bằng 2/3 kích thước của Vương quốc Anh - bao trùm hầu hết biển Hoa Đông Trung Quốc và vùng không phận bên trên quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang do Nhật Bản kiểm soát.

Trong khi Trung Quốc cho biết các quy định mới sẽ không ảnh hưởng đến "hoạt động bình thường" của các chuyến bay quốc tế, họ lại nói thêm rằng “sẽ có các biện pháp phòng thủ khẩn cấp” chống lại các máy bay không khai báo danh tính “đàng hoàng”.

Nhật Bản và đồng minh Hoa Kỳ đã chỉ trích mạnh mẽ động thái của Trung Quốc và cảnh báo về sự leo thang "đột ngột" của Trung Quốc, nếu Bắc Kinh thực thi ADIZ. Bộ Quốc phòng Trung Quốc hôm 24/11 cho biết họ đã gửi công hàm phản đối tới Đại sứ quán Mỹ và Nhật Bản ở Bắc Kinh, nói rằng nhận xét như vậy là thiếu căn cứ và vô trách nhiệm.

Một quan chức Bộ giao thông vận tải ở Seoul cho biết các máy bay Hàn Quốc bay trong khu vực mới sẽ thông báo cho cơ quan hàng không dân dụng Trung Quốc về kế hoạch chuyến bay của họ.

Yi Shin-Juang, Phó giám đốc dịch vụ không lưu Cục Hàng không dân dụng Đài Loan cho biết các máy bay Đài Loan sẽ phát ra thông báo tương tự, nhưng sẽ không được yêu cầu để điều chỉnh đường bay.

Một quan chức của Cục Hàng không dân dụng Nhật Bản cho biết các hãng hàng không nước này bay qua khu vực ADIZ đến các điểm bên ngoài Trung Quốc đại lục có khả năng phải thông báo cho Trung Quốc kế hoạch bay của mình.

Các máy bay của Hàng không Hàn Quốc (Korean Air) sẽ trao kế hoạch bay cho nhà chức trách Trung Quốc trước khi bay vào ADIZ - Ảnh: Getty Images

Hãng hàng không Hàn Quốc nói rằng tuyên bố của Trung Quốc có nghĩa là các kế hoạch bay sẽ phải trao cho nhà chức trách Trung Quốc, nhưng lộ trình của các chuyến bay sẽ không bị ảnh hưởng.

Các hãng hàng không Nhật Bản như Japan Airlines và ANA Holdings cho biết ADIZ không ảnh hưởng đến các chuyến bay của họ trong khu vực.

Hãng tin Tân Hoa xã của Trung Quốc cho biết các quy định có hiệu lực vào ngày 23/11 và lực lượng không quân Trung Quốc đã tiến hành chuyến tuần tra đầu tiên của mình tại khu vực, gồm các máy bay cảnh báo sớm và máy bay chiến đấu.

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cho biết Trung Quốc đã buộc các nước khác phải tuân thủ “luật chơi” của mình.

"Đó là một bước đơn phương nhằm thay đổi hiện trạng ở biển Hoa Đông”, Thủ tướng Abe nói tại Quốc hội Nhật hôm 25/11. “Tình hình leo thang có thể dẫn đến những sự cố bất ngờ trong vùng trời. Đây là một biện pháp cực kỳ nguy hiểm và chính phủ Nhật bày tỏ mối quan tâm mạnh mẽ về vấn đề này".

Cuối tuần qua, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã kêu gọi Trung Quốc kiềm chế khi nói rằng tự do hàng không là cần thiết cho sự ổn định và an ninh tại khu vực Thái Bình Dương.

Trong khi đó, Bộ Quốc phòng Trung Quốc nói rằng mỗi quốc gia đều có quyền thiết lập khu vực nhận dạng phòng không của mình. " Phát biểu của Nhật Bản là vô căn cứ và Trung Quốc sẽ không bao giờ chấp nhận nó", phát ngôn viên Dương Vũ Quân tuyên bố. Ông Dương nói: "Mục đích các biện pháp của Trung Quốc là nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và an ninh không phận lãnh thổ, duy trì trật tự các chuyến bay trên không phận và là một bài tập hiệu quả về quyền tự vệ”. ông Dương khẳng định Trung Quốc tuân thủ Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế.

VIỆT HƯNG (Theo Reuters, Kyodo)


Nguồn: Báo Phunuonline.com.vn

Xem thêm bài viết về Hàng không

Không lên máy bay mất tích nhờ đổi lịch làm việc

Một nhà báo Trung Quốc được tòa soạn đổi lịch công tác nên không lên chuyến bay MH370 như đã định.
press-conference2-5873-1394443181.jpg

Joshua Law Kok Hwa, phó chủ tịch Malaysia Airlines tại Trung Quốc, trả lời phỏng vấn hôm 8/3. Ảnh: Shanghaiist (Xem thêm thông tin về Hàng không quốc gia)

Xu Jin làm việc cho tờ Yangtze Evening News và có chuyến công tác dài ngày ở Malaysia. Xu định đến Bắc Kinh bằng chuyến bay MH370 hôm 8/3 để thực hiện một cuộc phỏng vấn. Tuy nhiên, cuộc hẹn bị hủy trước đó một tuần. Cuối cùng, Xu lên máy bay của một hãng hàng không Trung Quốc vào buổi chiều cùng ngày và thoát nạn.

"Tòa soạn đã cứu mạng tôi", Shanghaiist dẫn lời kể của người đàn ông trên trang mạng cá nhân. "Tôi về đến nhà an toàn, và người vợ đang mai thai đã chờ sẵn tại sân bay Nam Kinh".

Cũng theo lời Xu, khi ông tới sân bay quốc tế Kuala Lumpur vào lúc 10h sáng hôm 8/3, thông tin về vụ mất tích của chiếc máy bay Malaysia vẫn chưa lan rộng.

Một hành khách người Mỹ cũng cảm thấy nhẹ nhõm, sau khi lỡ chuyến bay mất tích vì vấn đề cá nhân. "Thật may mắn là tôi và bạn đồng hành không lên chiếc máy bay đó", ông viết trên tài khoản mạng của mình. "Tôi làm việc thay cho một người bị ốm và phải hủy chuyến".

Cuộc tìm kiếm quy mô lớn vẫn đang diễn ra kể từ khi chiếc máy bay thuộc hãng hàng không Malaysia bị mất liên lạc với trạm kiểm soát không lưu hôm 8/3. Chiếc phi cơ chở theo 227 hành khách thuộc 13 quốc tịch, cùng 12 thành viên phi hành đoàn. Cơ trưởng trong chuyến bay được xác định là Zaharie Ahmad Shah, 53 tuổi, người Malaysia. Ông đã có hơn 18.000 giờ bay và làm việc tại hãng Malaysia Airlines từ năm 1981.

Gia đình của các hành khách trên chuyến bay từ Kuala Lumpur đến Bắc Kinh vẫn đang chờ đợi thông tin của cuộc tìm kiếm. Nhiều người đã chuẩn bị tâm lý cho tình huống xấu nhất. "Chúng ta có đủ mọi công nghệ hiện đại, vậy mà vẫn không thể định vị được chiếc máy bay", Zhang Zhiliang, thân nhân của một hành khách, chia sẻ. "Tôi và nhiều người khác vẫn chưa thể biết người thân mình sống chết thế nào".

Trần Trang


Nguồn: baotintuc.vn

Xem thêm bài viết về Hàng không

"Miễn phí" mà vẫn kiếm nhiều tiền

Google là một trong những công ty sinh lời nhất nước Mỹ. Họ đã kiếm được rất nhiều tiền mà không bắt người khác phải trả tiền. Miễn phí nhưng vẫn kiếm đủ để căn bản tạo nên một nền kinh tế với quy mô của một quốc gia khá lớn. Chuyện này xảy ra như thế nào và sẽ đi về đâu? (Xem thêm thông tin về tiếp viên hàng không)

Nguyên tác: Free
Tác giả: Chris Anderson
Người dịch: Phan Triều Anh
Nhà xuất bản trẻ phát hành

Download bản tóm tắt "Miễn phí"

[MEDIA:mienphi]jQuery(document).ready(function(){jQuery('#A-1067984-0').media({});});

Về tác giả

Chris Anderson sinh năm 1961, hiện đang sinh sống ở California, USA. Ông từng làm việc cho các tạp chí nổi tiếng như Nature, Science và The Economist.

Năm 2001, ông lãnh đạo tờ Wired - một tạp chí đã giành nhiều giải thưởng lớn ở Hoa Kỳ. Năm 2006, ông xuất bản cuốn “Cái đuôi dài” (Long Tail) - best seller thời điểm ấy.

Năm 2009, ông được đưa vào danh sách 50 nhà tư tưởng lớn của thế giới, cùng với những nhân vật như Steve Johs, Jack Welch, Bill Gate, Paul Krugman, Joseph Stiglitz, Michael Porter, Daniel Goleman, Thomas Freedman…

Nội dung chính

LỜI GIỚI THIỆU

Với chiếc máy tính xách tay, ở quán cafe wifi, ta có thể ngồi làm việc một cách thoải mái. Mọi cái ta thực hiện trên máy tính từ thư điện tử cho đến lời nhắn tin trên Twitter, chạy chương trình duyệt Firefox, Google… đều hoàn toàn miễn phí (trừ café).

Miễn phí của thế kỷ XXI khác với thế kỷ XX như thế nào? Miễn phí không có gì mới, nhưng nó đang thay đổi, phải thấu hiểu miễn phí kiểu mới để chi phối thị trường ngày mai.

SỰ RA ĐỜI CỦA MIỄN PHÍ

Cuối thế kỷ XIX, Pearle Wait chiết xuất chất Glatin từ thịt và xương để tạo ra một gia vị thực phẩm mới rất hấp dẫn là Joll_0. Nhưng ông không thể bán được hàng vì sản phẩm còn rất xa lạ với người tiêu dùng. Cuối cùng ông phải bán nhãn hiệu này cho Frank Woodward với giá 450 USD. Nhưng rồi tình hình thật ảm đảm, hàng tồn kho ngày càng nhiều, Woodward nản chí, bán lại cho Nico với giá 35 USD nhưng Nico từ chối.

Năm 1902, Woodward cùng người phụ tá của mình thử cách khác: Trước hết họ đăng một mẫu quảng cáo trên Ladies’Home journal với giá 336 USD, rồi in hàng ngàn quyển sách mỏng giới thiệu Joll_0 với những công thức chế biến thực phẩm phát miễn phí cho các bà nội trợ.

Đến 1904 chiến dịch bán hàng đã thành công rực rỡ, doanh số đạt đến 1 triệu USD. Woodward hiểu rằng “miễn phí là một từ có quyền năng siêu việt”, miễn phí không có nghĩa là phi lợi nhuận mà có nghĩa rằng sản phẩm phải đi trên con đường gián tiếp đến với thị trường.

King Gillette

Cùng khoảng thời gian đó, tại Boston, một ngày nọ, King Gillette đang cạo râu bằng con dao xếp đã mòn đến mức không còn mài được nữa, ông nảy ra ý tưởng làm lưỡi dao bằng một băng kim loại mỏng, để thay vì phải mất thời gian mài dao, người ta chỉ cần vứt đi khi dao cùn. Lưỡi dao cạo dùng xong rồi bỏ đã ra đời từ đó.

Trong năm đầu 1903, Gillette chỉ bán được tổng cộng 51 con dao và 168 lưỡi dao. Những năm tiếp theo, Gillette đã thử mọi mẹo marketing, như: cho in hình mình trên bao bì, bán hàng triệu dao cạo cho quân đội với giá rẻ, bán từng lô dao cạo cho ngân hàng để họ tặng khách hàng, dao cạo được bán kèm với mọi thứ từ kẹo cao su đến các gói café, trà, hương liệu, thậm chí phát không cho khách hàng.

Bằng những cách ấy, Gillette đã tạo ra nhu cầu lưỡi dao cạo dùng xong rồi bỏ. Gillette đã bán dao cạo với giá rất rẻ, nhưng lưỡi dao thì có giá tương đối cao.

Sau này, người ta áp dụng mô hình của Gillette trong tất cả các ngành: cho không điện thoại di động, thu phí sử dụng hàng tháng; bán máy chơi game với giá rẻ nhưng bán các trò chơi với giá đắt; lắp đặt các máy pha café tại các văn phòng không thu phí để rồi bán café gói cho các chủ văn phòng.

Vào buổi bình minh của thế kỷ XX, miễn phí tiếp thêm sức sống cho cuộc cách mạng của người tiêu dùng. Miễn phí là lời hiệu triệu của những nhà tiếp thị hiện đại và luôn được người tiêu dùng đáp lại.

Miễn phí của thế kỷ XXI

Miễn phí của thế kỷ XXI không phải là thứ mẹo, mà là một khả năng mới phi thường làm giá thành của sản phẩm và dịch vụ giảm xuống gần bằng không. Hình thức miễn phí dựa trên kinh tế học của những con số nhị phân chứ không phải là nguyên tử. Đó là phẩm chất độc nhất vô nhị của thời đại số khi mà một thứ nào đó trở thành phần mềm thì nó không tránh khỏi trở thành miễn phí.

MIỄN PHÍ LÀ GÌ?

Miễn phí nhập môn

Miễn phí gốc là một từ ghép trong tiếng Latin bao gồm từ Liber (tự do) và Grastis (để cảm ơn). Ý nghĩa “tự do” tích cực đôi lúc cũng gây ra sự mơ hồ nên phải dùng từ Gratis để nhấn mạnh thực sự miễn phí. Nhưng rồi kết cục người ta lại dùng một từ free duy nhất. Từ free, miễn phí hay tự do có gốc từ tiếng Anh cổ freon, freogan (tự do, tình yêu). Như vậy, free - miễn phí xuất phát từ ý niệm xã hội của sự giải thoát, cả khỏi ách nô lệ lẫn chi phí.

Muôn hình vạn trạng của chi phí

"Miễn phí” có rất nhiều ý nghĩa. Đôi lúc “free” không thực sự miễn phí: mua một tặng một, miễn phí giao hàng (có nghĩa phí giao hàng đã tính trong giá bán), hàng mẫu miễn phí (free sample), dùng thử miễn phí (free trial) - tạo tâm lý mắc nợ, khuyến khích người tiêu dùng mua sản phẩm nguyên giá…

Đôi khi miễn phí thực sự là miễn phí và đây là mô hình mới, hầu hết số này có tính trực tuyến, nơi mà kinh tế số thống trị với mức phí tiến dần bằng không.

Các dạng miễn phí nói trên đều chỉ là biến thiên của một mô hình chung: điều chuyển tiền vòng quanh từ sản phẩm này sang sản phẩm khác, từ người này sang người khác, giữa hiện tại và tương lai, hoặc vào thị trường phí tiền tệ rồi trở ra. Các nhà kinh tế học gọi chúng là “hỗ trợ qua lại”.

Cả thế gian đều hỗ trợ qua lại

Hỗ trợ qua lại là tinh thần của thành ngữ “Không có gì là miễn phí” (There’s no such thing as a free luch – đừng hòng có bữa trưa mà không phải trả tiền). Điều đó có nghĩa là cách này hay cách khác sẽ có người trả tiền cho bữa trưa.

Hỗ trợ qua lại có thể diễn ra theo một vài hình thức khác nhau:

- Sản phẩm có chi phí bù cho sản phẩm miễn phí.

- Trả tiền sau, tài trợ cho miễn phí hiện tại, tiền sử dụng điện thoại hàng tháng trả cho chiếc điện thoại miễn phí ban đầu.

- Những người trả tiền, tài trợ cho những người miễn phí, đàn ông mua vé vào hộp đêm, có thể dẫn theo phụ nữ không phải trả tiền. Người lớn dẫn trẻ em vào vườn bách thú miễn phí nhưng rồi người lớn phải trả tiền cho những trò chơi của trẻ…

Mô hình miễn phí rơi vào một trong bốn loại sau:

1/ Hỗ trợ chéo trực tiếp

Cho không sản phẩm hoặc dịch vụ để khuếch trương và thu lợi các sản phẩm và dịch vụ khác (ví dụ về King Gillette, về điện thoại miễn phí).

2/ Thị trường ba bên

Đài phát thanh, truyền hình phủ sóng miễn phí, mạng internet, các đối tượng khách hàng dùng các phương tiện đó miễn phí nhưng các nhà quảng cáo sẽ trả tiền cho mọi thứ. Người tiêu dùng có cảm giác mặt hàng chính yếu mình đang quan tâm là miễn phí, nhưng cuối cùng họ cũng sẽ mất tiền một cách gián tiếp, qua mức giá sản phẩm cao hơn.

3/ Miễn phí giá cao

Năm 2009, Chris Anderson được đưa vào danh sách 50 nhà tư tưởng lớn của thế giới, cùng với những nhân vật như Steve Johs, Jack Welch, Bill Gate, Paul Krugman, Joseph Stiglitz, Michael Porter, Daniel Goleman, Thomas Freedman…
Với sản phẩm số, 5% khách hàng sẽ trả tiền cho 95% khách hàng còn lại, điều này có nghĩa là mỗi khách hàng trả tiền sử dụng phiên bản giá cao đầy đủ chức năng thì mười chín người khác được sử dụng phiên bản miễn phí ít chức năng hơn.

4/ Thị trường phi tiền tệ: Dạng này có vài hình thức:

Nền kinh tế quà tặng: Mười hai triệu bài viết trên wikipedia, hàng triệu món đồ đã qua sử dụng được rao trên Freecyete chỉ để cho tặng, bạn cho Google thông tin khi bạn sở hữu một website mở, bạn cho một kẻ vô gia cư những vật dụng mà anh ta nhặt từ thùng rác nhà bạn… Phương thức phân phối với chi phí bằng không đã biến việc chia sẻ trở thành một ngành kinh doanh, theo đó bạn sẽ được những giá trị như niềm vui, sự thỏa mãn, danh tiếng, và internet cung cấp một nền tảng cho phép hành động của từng cá nhân có thể gây ảnh hưởng toàn cầu.

Đổi công: Mỗi lần bạn tìm kiếm trên Google, bạn đã giúp Google cải thiện các thuật toán nhằm mục tiêu quảng cáo của họ. Dù bạn có nhận thức được hay không, bạn đã trả bằng công lao động của mình cho một thứ hàng miễn phí.

Vi phạm bản quyền: Âm nhạc trực tuyến thể hiện bằng việc chuyển đổi nhạc sang dạng số và chia sẻ chúng qua mạng, chi phí cho phổ biến âm nhạc thực sự chạm đáy, mọi biện pháp chống lại sự vi phạm bản quyền đã chào thua. Người nghệ sĩ phải chấp nhận thực tế đó, đối với họ, âm nhạc như một phương tiện tiếp thị, là niềm vui, xây dựng hình ảnh và danh tiếng.

Ba mức giá: Hầu như ta chỉ nói về hai mức giá trị: có phí và miễn phí, nhưng còn một mức giá thứ ba thấp hơn cả miễn phí, đó là mức giá âm: bạn được trả tiền để sử dụng một sản phẩm hoặc dịch vụ thay vì ngược lại. Trong hầu hết các trường hợp thì trước sau gì rồi bạn cũng bỏ tiền ra. Ví dụ: phần tiền được thưởng sau khi thanh toán đầy đủ tạo ra một tâm lý hoàn toàn khác so với việc phải trả một số tiền ít hơn ngay từ đầu.

LỊCH SỬ MIỄN PHÍ

Số 0

Khi người Ấn Độ phát minh ra môn đại số, họ mở rộng thêm số âm và số 0 từ thế kỷ IX. Từ “zero” trong ngôn ngữ Ấn là Sunya, có nghĩa là trống rỗng, người Ả Rập chuyển thành sifr, phương Tây Latin hóa nó thành zephirus, chính là gốc của từ zero.

Rắc rối của miễn phí

Đến năm 900, đã có đủ ký hiệu lẫn cơ sở đại số cho khái niệm “không” thì nó đã cùng tồn tại song song với khái niệm “economics”. Từ nguồn gốc Hy Lạp cổ, oikos (nhà) và nomos (tập quán hay luật lệ) do đó nó có ý nghĩa là “luật gia đình” và miễn phí luôn là luật trong nhà.

Từ khi nền kinh tế trên cơ sở tiền tệ hình thành, các giao dịch hầu như không liên quan đến giá cả mà dựa trên sự hào phóng, tin tưởng, thiện chí giữa các láng giềng và các nhóm xã hội. Vào thế kỷ XVII, khái niệm thuế lũy tiến ra đời, việc thành lập các thể chế nhà nước tạo ra một dạng miễn phí đặc biệt: bạn có thể không trả phí cho dịch vụ của chính quyền, nhưng bạn sẽ chẳng bao giờ biết chính xác bao nhiêu tiền thuế của mình được dùng để phục vụ trực tiếp cho bạn.

Bữa trưa miễn phí đầu tiên

Đến cuối thế kỷ XIX, nền kinh tế thị trường đã được thiết lập vững vàng, đồng tiền đã chứng tỏ mình là xúc tác cho tăng trưởng và là chìa khóa để đến với thịnh vượng. Đến thời kỳ mà King Gillette và Pearle Wait tạo dựng được cả gia sản từ miễn phí, khách hàng đã quen thuộc với câu “làm gì có bữa trưa miễn phí”.

Hàng mẫu, quà tặng và dùng thử

Vào đầu thế kỷ XX, miễn phí đã trở thành một mẹo bán hàng. Xà phòng Babbitt’s Soap trở nên nổi tiếng toàn quốc nhờ các chiến dịch quảng cáo và khuyến mãi, trong đó có đợt phân phối hàng dùng thử miễn phí trên quy mô lớn đầu tiên.

Free như một vũ khí cạnh tranh

Ngày nay, chúng ta biết rằng cách hủy diệt nhất để xâm nhập thị trường là phá hủy tính kinh tế của những mô hình kinh doanh đang tồn tại. Chẳng hạn không tính tiền sản phẩm đang là nguồn lợi nhuận chủ yếu của đối thủ.

Vụ đánh cược sai lầm của Ehrlick

Ý tưởng hàng hóa sẽ trở thành rẻ hơn chứ không đắt hơn theo thời gian là ngược với trực giác. Thực phẩm có thể tái tạo chứ khoáng sản thì không, chúng ta khai quặng càng nhiều thì còn lại càng ít, đó là điển hình của khan hiếm trong lúc dân số thế giới ngày càng gia tăng. Nhưng tháng 9/1980, Paul Ehrlick, một nhà sinh học dân số, và Julian Simon, một nhà kinh tế học, đã đánh cược với nhau một cách công khai với số tiền là 10.000 USD.

Simon tuyên bố: “Giá của các nguyên liệu khô mà nhà nước không kiểm soát sẽ không tăng trong dài hạn”. Ehrlick chọn năm kim loại là đồng, chrome, nickel, thiếc và tungsten. Mười năm sau, giá các kim loại đó đã giảm hơn một nửa - Simon đã thắng cược. Vì sao Simon thắng cược? Vì ông là một nhà kinh tế tài ba, hiểu được tác động của hàng hóa thay thế: Nếu một mặt hàng trở nên quá khan hiếm và đắt đỏ, đó sẽ là động cơ để tìm kiếm mặt hàng thay thế có nhiều hơn. Óc sáng tạo của loài người và khả năng rút kinh nghiệm trong khoa học và công nghệ sẽ có xu hướng tạo ra các nguồn lực mới nhanh hơn tốc độ sử dụng.

Mù lòa trước dư dả

Điều hiển nhiên là Simon có nhiều cơ hội thắng cuộc hơn. Nhưng khuynh hướng để ý đến những thứ khan hiếm hơn là thừa thãi xuất hiện. Ví dụ tiêu biểu nhất là plastic: người ta bán thế hệ chất dẻo plastic đầu tiên không phải như chất dùng xong rồi bỏ, nhưng thế hệ thứ hai của plastic với Vinyl và Polystyrene thì rẻ đến nỗi người ta có thể dùng xong rồi vứt đi mà không phải bận tâm chút nào.

Sau thập niên 70, thái độ đối với siêu thừa thãi như vậy đã bắt đầu thay đổi. Chi phí xử lý môi trường phải trả cho văn hóa tiêu dùng một lần rồi bỏ đã trở nên rõ ràng hơn. Cho nên, một thế hệ mới bắt đầu công việc tái chế đồ bỏ đi.

Sự thừa thãi lên ngôi

Câu chuyện của thế kỷ XX là câu chuyện sự thay đổi ghê gớm về mặt xã hội và kinh tế do sự dư dả dẫn dắt. Tương tự như việc nước luôn luôn chảy xuôi, tính kinh tế chảy về phía có sự dư thừa. Những công ty tìm kiếm lợi nhuận phải ngược dòng tìm kiếm sự khan hiếm mới, điều đó Tim O’Reilly gọi là “ định luật bảo toàn mức lợi nhuận hấp dẫn”. Ngày nay, chỉ còn 32% công ty chế tạo ra sản phẩm cầm nắm được. Các công ty còn lại chuyển qua cung cấp dịch vụ, tạo ra sản phẩm sở hữu trí tuệ, tạo ra thị trường cho sản phẩm của những người khác.

Một vài thập kỷ trước, giá trị lớn nhất nằm trong sản xuất. Sau đó toàn cầu hóa nằm trong sản xuất. Ngày nay mức lợi nhuận cao nhất thường thấy ở những nơi chất xám kết hợp với vật chất. Sự kết hợp giữa kiến thức, kỹ năng và tư duy trừu tượng là điều làm nên một người lao động tri thức có hiệu quả.

KHOA HỌC TÂM LÝ VỀ MIỄN PHÍ

Nếu có thứ gì đó trước đây phải mất tiền mua, còn nay thì không, chúng ta có xu hướng đồng hóa hiện tượng đó với suy giảm chất lượng. Nhưng đối với những thứ chưa bao giờ phải mất tiền mua, chúng ta không suy nghĩ tương tự.

Kẽ hở tí hon

Trong hầu hết các trường hợp, chỉ một xu - một mức giá thường được coi như vô nghĩa - cũng có thể ngăn đại đa số người tiêu dùng lại. Vì bộ não của chúng ta được thiết kế để báo động mỗi khi chúng ta gặp phải một cái giá, lời báo động là “có đáng không nhỉ?”. Và chúng ta có xu hướng lựa chọn những thứ đòi hỏi ít phải suy nghĩ nhất. Theo cách nhìn của khách hàng, giữa rẻ và miễn phí có một khoảng cách vô cùng lớn.

Giá của miễn phí

Hầu hết các giao dịch có ưu điểm lẫn nhược điểm, nhưng khi có thứ gì cung cấp miễn phí, chúng ta sẽ quên mất nhược điểm của nó. Đó là vì người ta có bản chất sợ thiệt thòi. Khi nhận được cái gì đó miễn phí, bạn không hề phải đối diện với một khả năng bị mất mát nào cả, nhưng khi bạn chấp nhận một thứ không miễn phí, xác xuất chịu mất mát xuất hiện.

Không chi phí, không cam kết

Miễn phí có thể khuyến khích thói tham ăn, vơ vét, tiêu dùng thiếu suy nghĩ, tội lỗi và lòng tham. Chúng ta lấy đồ vì chúng có sẵn đó chứ không phải vì chúng ta cần. Cứ áp một mức giá, dù rất thấp chăng nữa, cũng sẽ khuyến khích hành vi có trách nhiệm hơn. Miễn phí là cách tốt nhất để tối đa hóa số người có thể tiếp cận với sản phẩm, dịch vụ, nhưng không phải đó là cái đích cuối cùng bạn nhắm tới, nó có thể gây ảnh hưởng tiêu cực. Như một công cụ mạnh khác, miễn phí phải được sử dụng cẩn thận bằng không thì lợi bất cập hại.

Phương trình thời gian / tiền bạc

Tại một thời điểm nào đó trong đời, bạn có thể tỉnh dậy và nhận ra rằng bạn có nhiều tiền hơn thời gian, rồi bạn cũng nhận ra rằng mình cần bắt đầu làm khác đi. Bạn trả tiền cho thứ gì đó để giảm bớt rủi ro vì giá cả đi liền với đảm bảo, trong khi miễn phí thì không.

Miễn phí lại có tác dụng tuyệt vời khi đi cùng với trả tiền. Nó có chỗ cho những tâm lý thay đổi của những khách hàng khác nhau, từ những người có nhiều tiền hơn thời gian cho đến những người nhiều thời gian hơn tiền bạc.

Đầu óc vi phạm bản quyền

Vi phạm bản quyền là một hình thức trộm cắp đặc biệt, thường bị những kẻ vi phạm cũng như những người tiêu thụ hàng hóa vi phạm bản quyền coi hành vi vi phạm nhưng không có nạn nhân.

Lập luận của họ là hàng hóa vi phạm hiếm khi thay thế được hàng hóa hợp pháp. Thay vào đó, nó cho phép sản phẩm tiếp cận với những người không đủ tiền mua hàng hợp pháp hoặc có tiền nhưng không chịu mua hàng hóa hợp pháp.

Cliff Harris tạo ra các trò chơi điện tử với mức giá 20 dollar nhưng lập tức các trò chơi của ông vi phạm bản quyền. Ông nghiên cứu, tìm hiểu và nhận ra rằng, người sử dụng đánh giá sản phẩm của ông thấp hơn ông tưởng, ông nghĩ mọi nỗ lực đảo ngược vấn đề là vô ích. Harris giảm giá các trò chơi của mình còn một nửa, nâng cao chất lượng trò chơi, làm gian hàng trên mạng của mình dễ sử dụng hơn để cạnh tranh với miễn phí.

MIỄN PHÍ KỸ THUẬT SỐ

Quá rẻ nên chẳng đáng quan tâm

Vào năm 1954, Lewis Strauss dự đoán những điều vĩ đại sẽ đến: bệnh tật sẽ bị khuất phục, con người di chuyển vượt đại dương, du hành trên không với vận tốc khổng lồ, chúng ta sẽ dùng điện với giá rất rẻ đến nỗi không phải mất công đo đếm… sẽ thay đổi thế giới .

Và thực sự khi khoa học và kỹ thuật bùng nổ sau chiến tranh, kinh tế tăng trưởng với mức độ chưa từng thấy, nhưng điện năng thì không rẻ đến mức có thể bỏ qua không cần đo đếm. Ngày nay có 3 công nghệ khác cũng có ý nghĩa đối với nền kinh tế với mức độ tương đương điện năng, đó năng lực xử lý của máy tính, lưu trữ kỹ thuật số và băng thông. Cả ba đang ngày càng rẻ đến nỗi người ta không phải bận tâm.

Đón rẻ

Khi chi phí mặt hàng bạn sản xuất giảm đều đặn, bạn có thể áp dụng cơ chế giá mà thoạt nhìn có thể coi là điên rồ. Thay vì bán nó với mức phí ngày hôm nay, bạn có thể bán nó với mức phí của ngày mai. Kevin Kelly gọi đó là “đón rẻ”. Chẳng hạn đầu thập niên 1960, hãng Fairchild Semiconductor đang bán những con transistor đầu tiên với mức giá 100 USD. Họ hiểu rằng sản lượng tăng chi phí sẽ giảm nhanh chóng, họ dùng chiến thuật đi trước triển vọng giảm giá, họ đặt mục tiêu với mức giá 1,05 USD, sau đó 50 cent mà vẫn thu được lợi nhuận, họ bảo “chúng tôi bán vào tương lai”.

Tại sao định luật Moore phù hợp với thực tế?

Hầu hết các quy trình sản xuất công nghiệp ngày càng cải thiện và diễn tiếp theo hiện ứng được biết đến với tên gọi là đường học tập (Learning curve), nhưng chỉ các quy trình đặt nền tảng trên chất bán dẫn là cải thiện nhanh hơn và duy trì lâu hơn. Về mặt kinh tế, đầu vào của sản phẩm bán dẫn hầu như tuyệt đối là trí tuệ thay vì vật chất. Ý tưởng là thứ hàng hóa thừa thãi sau cùng, có thể phát tán với mức chi phí biên bằng không, ý tưởng tự nó muốn được truyền bá rộng rãi, làm sung túc thêm cho mọi thứ khi nó chạm đến. Bản quyền được đặt ra như nỗ lực ngăn cản dòng chảy tự nhiên của ý tưởng, nhưng rồi bằng phát minh sáng chế cũng hết hạn, ý tưởng không thể che giấu mãi mãi.

Sản phẩm được tạo ra từ ý tưởng thay vì từ vật chất rẻ đi nhanh chóng hơn. Đây là gốc rễ của sự thừa thãi, điều dẫn tới miễn phí trong thế giới kỹ thuật số mà ngày nay chúng ta nói ngắn gọn là định luật Moore.

Định luật Mead

Gordon Moore nói rằng: “Nếu năng lực của máy tính ở một mức giá nhất định tăng gấp đôi sau mỗi hai năm, thì chi phí cho mỗi đơn vị năng lực tính toán phải giảm đi một nửa trong cùng khoảng thời gian đó”. Giống như Moore, Mead thấy rằng việc năng lực tăng gấp đôi sau mỗi mười tám tháng sẽ còn tiếp tục lâu dài vì nó được dẫn dắt bởi đường học hỏi và đường kinh nghiệm mà ông gọi là “đường kinh nghiệm kép”. Điều mà Mead nhận ra là hiệu ứng kinh tế này mang theo nó một mệnh lệnh tinh thần. Nếu Transistor đã trở nên quá rẻ, ông bảo các lập trình viên hãy phí phạm nó đi.

Con chuột cất tiếng rống

Kỹ sư Alan Kay phát triển một mẫu máy tính - Dynabook - có thể tận dụng các mạch silicon làm những chuyện vui vẻ trên màn hình như vẽ, định hướng con trỏ bằng chuột… Điều Kay nhận ra là làm cho công nghệ thật rẻ, dễ sử dụng và phổ biến để ai cũng có thể dùng được, để rồi nó có mặt khắp thế giới. Nhờ phí phạm transistor như vậy mà thế giới đã thay đổi.

Sắt và kính

Câu chuyện về chất bán dẫn đã trở thành huyền thoại của nền kinh tế kỹ thuật số. Sự thật là hai công nghệ có liên quan là không gian lưu trữ và băng thông đã vượt qua nó trong cuộc đua xuống đáy. Chiếc đĩa lưu trữ làm bằng sắt có thể giữ được từ trường mạnh, và ngành khoa học trung tâm ở đây là quang học. Tuy nhiên, tỷ lệ chất xám trên vật chất là mức cao, do đó các sáng kiến đổi mới thường xuất hiện để tái khởi động chu kỳ cải tiến kỹ thuật.

Điều thừa thãi có thể tạo ra

Băng thông rẻ đến mức không phải bận tâm nữa mang lại cho chúng ta Youtube. Nó nhanh chóng cách mạng hóa ngành truyền thông. Không gian lưu trữ rẻ đến mức không còn đo đếm đã mang đến cho chúng ta Gmail với dung lượng hộp thư không giới hạn, chưa nói đến Tivo, Flicks, Myspace và Ipod. Apple gia tăng dung lượng của đĩa cứng mà vẫn giữ nguyên giá và tốc độ nhanh hơn cho nhu cầu lưu trữ âm nhạc. Toshiba sẽ sớm sản xuất loại đĩa cứng cỡ 1,8inch lưu trữ được 5 gigabyte.

Giờ thì sự kết hợp cả ba công nghệ - xử lý, lưu trữ và băng thông - đã tạo ra web, sự thừa thãi đã nhân gấp bội.

“THÔNG TIN MUỐN TRỞ THÀNH MIỄN PHÍ”

Lịch sử một tuyên ngôn của thời đại số Steven Levy liệt kê bảy “triết lý của hacker”:

1. Việc tiếp cận với máy tính - và mọi thứ có thể dạy bạn chút gì đó về cách thức vận hành của thế giới - là không hạn chế và toàn diện.

2. Luôn luôn tuân theo niềm thôi thúc tự mình làm lấy!

3. Mọi thông tin cần được tự do.

4. Nghi ngờ quyền lực - cổ vũ cho phân quyền.

5. Đánh giá một hacker dựa trên khả năng thâm nhập như bằng cấp, tuổi tác, chủng tộc hoặc địa vị.

6. Chúng ta có thể tạo ra nghệ thuật và cái đẹp từ một chiếc máy tính.

7. Máy tính có thể làm cuộc đời ta tốt đẹp hơn.

CẠNH TRANH VỚI MIỄN PHÍ

Ngày 3/3/1975, Bill Gates của Microsoft viết “Thư ngỏ gửi những kẻ đánh cắp phần mềm”. Ông cảnh báo nếu việc này còn tiếp diễn, ông sẽ không thể viết phần mềm mới và mọi người sẽ cùng chịu thiệt.

Nhưng việc sao chép bất hợp pháp không bao giờ biến mất hoàn toàn, khi phần mềm chuyển từ các đĩa mềm khó sao chép sang CD, việc sao chép bất hợp pháp bùng nổ. Microsoft thêm mã an ninh trên gói sản phẩm với tem có hình ảnh ba chiều, kiện tụng, tuyên truyền đánh động, ngoại giao. Nhưng tình hình vẫn không thể kiểm soát nổi, nhất là ở các nước đang phát triển. Gates nói: “Dù sao thì một ngày nào đó họ sẽ trả, và khi họ còn ăn cắp thì chúng tôi muốn họ ăn cắp phần mềm của mình, họ sẽ trở nên nghiện và rồi chúng tôi sẽ tìm ra cách nào đó thu tiền vào thập kỷ tới”.

Dùng thử miễn phí

Trong thập niên 1990, các đối thủ cạnh tranh với Microsoft như WordPerfect office và Lotus Smartsuite chỉ yêu cầu các nhà sản xuất máy tính cá nhân phải trả một mức phí rất thấp để phần mềm của họ được đóng gói bán chung với máy tính mới. Gates quyết định đáp trả. Microsoft phát triển phiên bản giảm bớt tính năng của bộ office, được gọi là Microsoft works, và chỉ thu 10 dollar từ nhà sản xuất máy tính để bán kèm với bộ máy tính mới. Mức giá này cạnh tranh có hiệu quả, bởi vì works tương thích về định dạng file với bộ office đầy đủ, đây là cách để giữ người tiêu dùng trong phạm vi ảnh hưởng của Microsoftt. Công ty nhanh chóng phát triển trình duyệt miễn phí của riêng mình, internet explorer và gộp nó vào cùng mọi phiên bản hệ điều hành của công ty. Chiến lược này đã đạt kết quả mong muốn. Các viên chức chống độc quyền đã tố cáo công ty đã “trói” một sản phẩm miễn phí vào một sản phẩm mới trả tiền. Microsoft đã phải trả giá bằng hàng thập kỷ bị kiện cáo độc quyền và phải nộp phạt bởi hành vi chống lại tự do cạnh tranh.

Cuộc tấn công của chim cánh cụt

Lim Torvalds thực hiện một dự án khiêm tốn để tạo ra một biến thể đơn giản của hệ điều hành Unix mà ông gọi là Linux. Nhờ có mã lệnh tốt, tính cách lôi cuốn và kỹ năng tổ chức của người đứng đầu và quan trọng nhất là web đã trở thành phương tiện cho hợp tác toàn cầu, Linux đã cất cánh.

Từ cuối những năm 1990, trong nội bộ Microsofl thì Linux chỉ được coi như thêm một con muỗi quấy rầy nữa, không nghiêm trọng đến mức phải điều chỉnh chiến lược. Tại sao Microsofl phải mất rất nhiều thời gian mới nhận ra mối đe dọa? Năm giai đoạn đau đớn được Elisabeth Kybles-Ross kể như sau:

Giai đoạn 1: Chối bỏ

Microsoft làm gì trong thập kỷ đầu tiên của Linux? Chủ yếu là hy vọng hệ điều hành miễn phí này sẽ biến mất như hầu hết các phần mềm miễn phí trước đó. Microsoft thấy bối rối là tại sao khách hàng lại muốn dùng phần mềm miễn phí và rước mọi rắc rối đi cùng sản phẩm đó? Những người điều hành Microsoft coi nguồn mở chỉ là một thứ bị thổi phồng quá đáng. Các dự án phức tạp trong tương lai sẽ đòi hỏi các nhóm lớn và vốn đầu tư lớn mà đối thủ sẽ không thể nào thích hợp.

Giai đoạn 2: Tức giận

Microsoft quyết định lấy kinh tế làm chiến lược tấn công. Chi phí thực sự của phần mềm không phải là giá mua mà là chi phí duy trì. Microsoft công bố tài liệu “Năm chuyện hoang đường của Linux”, liệt kê những khuyết điểm kỹ thuật, tính năng, miễn phí thì không thực sự miễn phí, các nhà quản trị hệ thống Linux phải bỏ rất nhiều thời gian để hiểu những lỗi kỹ thuật đó. Tuy nhiên, những cáo buộc của Microsoft không có tác dụng. Giám đốc quan hệ công chúng tuyệt vọng: “Chúng ta phải phản ứng có hiệu quả hơn trước những thông tin báo chí về việc chính phủ và các tổ chức lớn đang xem xét các lựa chọn (nguồn mở) khác thay vì sản phẩm của chúng ta…”.

Giai đoạn 3: Mặc cả

Đến thời điểm của Linux world 2002, Microsoft đã rõ là họ cần có một chiến lược mới. Một cán bộ của Microsoft phát biểu: “Như thực tế trong quá khứ, mọi thứ chúng tôi nói chỉ đào huyệt chôn mình sâu hơn…”. Tại Linux world, các đại diện của Microsoft mặc áo có dòng chữ “Hãy đối thoại”.

Giai đoạn 4: Suy sụp

Năm 2003, họ thuê Bill Hilf, người từng điều hành chiến lược Linux thành công của IBM. Khi nói chuyện với các kỹ sư, Hilf nhận ra: “Rõ ràng là họ chẳng biết gì về nguyên lý vận hành nguồn mở, có một sự hiểu nhầm khủng khiếp - họ chỉ thấy nó như một đe dọa”.

Hilf muốn xây dựng một phòng thí nghiệm nguồn mở tại Microsoft, nó bị coi như một cơ sở có nguy cơ rủi ro sinh học. Những ai làm việc với nguồn mở không thể làm việc trong bất kỳ dự án nào khác của Microsoft.

Giai đoạn 5: Chấp nhận

Phòng thí nghiệm của Hilf hoạt động. Điều gì đã thay đổi? Đó là tính thực tế của cấp lãnh đạo, Gates và Ballmer. Đã đến lúc Microsoft phải thích nghi đảm bảo rằng phần mềm của họ chạy được với nguồn mở và ngược lại.

Thị trường đã quyết định rằng, có chỗ cho cả ba mô hình: hoàn toàn miễn phí, miễn phí phần mềm nhưng phải trả tiền cho hỗ trợ, và trả tiền cho mọi thứ.

Yahoo đấu với Google

Yahoo là nhà cung cấp dịch vụ thư điện tử trên web lớn nhất, với khoảng 125 triệu người sử dụng. Đó là một công việc béo bở.

Ngày 1/4/2004, Google thông báo về một dịch vụ thư điện tử mới trên web gọi là Gmail với dung lượng lưu trữ 1 Gigabyte miễn phí - gấp 100 lần con số của Yahoo. Google chưa có khách hàng dùng thư điện tử, nên họ đề xuất dịch vụ với dung lượng lớn như vậy thì chỉ cần vài máy chủ có thể chăm lo được cho vài ngàn khách hàng đầu tiên.

Muốn giữ vị trí hàng đầu, Yahoo phải đưa ra đề nghị hấp dẫn hơn nữa. Đến năm 2007, Yahoo tung hết chiêu, công bố không giới hạn hộp thư điện tử miễn phí. Cuối cùng chiến lược đã phát huy hiệu quả. Yahoo không mất đi thị phần quan trọng. Nhưng Google vẫn chưa bó tay, họ chỉ mới bắt đầu cuộc đua.

LOẠI TIỀN RA KHỎI CUỘC CHƠI

Google và sự ra đời của một mô hình kinh tế thế kỷ XXI

Ngày nay, Google có gần 100 sản phẩm từ phần mềm chỉnh sửa ảnh cho đến chương trình xử lý văn bản và bảng tính, và hầu hết là miễn phí. Miễn phí thực sự, không thủ đoạn gì hết. Google thực hiện theo cách mà bất kỳ công ty số hiện đại nào cũng nên làm: cho không thật nhiều sản phẩm để kiếm tiền từ một số ít.

Google kiếm được rất nhiều tiền từ quảng cáo trên một vài sản phẩm then chốt. Google luôn đặt câu hỏi về chất lượng chứ không phải về tiền. Miễn phí không chỉ là một bước đệm trên con đường đi đến một mô hình kinh doanh mà là cốt lõi trong triết lý sản phẩm của công ty.

Năm 1999-2001, Google phát minh ra cách tìm kiếm cho kết quả ngày càng tốt hơn. Cho phép khách hàng “tự phục vụ” bằng cách tự tạo ra các quảng cáo thích hợp, tạo ra vô số sản phẩm phục vụ, đưa ngày càng nhiều chức năng trước đây chạy trên máy để bàn lên “đám mây” (cloud). Đó là trung tâm dữ liệu của Google - một tòa nhà khổng lồ với hàng chục ngàn bảng mạch công nghệ kết hợp lại - xử lý, băng thông và lưu trữ. Ngày nay, ước tính Google có khoảng nửa triệu máy chủ trải trên hơn 36 trung tâm dữ liệu.

Chiến lược tối đa

Tại sao Google coi miễn phí là mặc định? Bởi vì, đó là cách tốt nhất để tiếp cận một thị trường lớn nhất có thể và được số đông chấp nhận. Schmidt gọi đó là “chiến lược tối đa” của Google.

Mỗi bài viết trên blog xuất hiện là chương trình quét của Google sẽ tạo chỉ mục để giúp Google xuất ra kết quả tìm kiếm tốt hơn. Đại đa số nhân viên của Google đang trăn trở tìm ra những sản phẩm mới để cho đi.

Google muốn thông tin được tự do bởi vì khi chi phí cho thông tin giảm xuống thì họ kiếm được nhiều tiền hơn.

CÁC MÔ HÌNH TRUYỀN THÔNG MỚI

Năm 1925 - buổi bình minh của ngành kinh doanh radio cho mục đích thương mại - là khởi đầu của văn hóa đại chúng thế kỷ XX. Chỉ có một vấn đề: không ai biết trả tiền cho những nội dung đó bằng cách nào, hoặc do những nhà sản xuất máy thu sóng radio trả tiền, hoặc khán thính giả phải đóng thuế hàng năm cho radio và TV họ sử dụng. Đã có một số gợi ý là quảng cáo là giải pháp.

Một vài thập kỷ sau, cả truyền thanh và truyền hình đều có những chương trình không thu phí và được tài trợ nhờ quảng cáo.

Quảng cáo vượt lên trên các phương tiện

Khi hình thành các trang báo in, chúng tôi không để những mẫu quảng cáo gần nội dung biên tập để tránh những xung đột tai hại giữa các câu chuyện hoặc yếu tố nghệ thuật, chúng tôi còn phải xây dựng lòng tin nơi độc giả. Google làm chính điều ngược lại, thành công của Google nhờ ở chỗ nó kết hợp quảng cáo với nội dung. Điều đó rõ ràng là bản chất của quảng cáo là khác biệt trên môi trường trực tuyến.

Đoạn kết của nội dung phải trả tiền

Mạng băng thông rộng là dạng “phát sóng” mới và các mạng truyền hình cáp giá cao giam hãm người xem ngày nay dường như đang tàn lụi. Đó là do thị hiếu của thế hệ mới và do xu thế công nghệ. Lý do dẫn đến việc giới kinh doanh chuyển sang mô hình miễn phí là:

1. Cung và cầu (cung tăng rất nhiều lần mà cầu thì không, số trang của Faceboook tăng nhiều hơn số trang của Times và chúng được tạo ra không hề với ý định thu tiền người đọc).

2. Không còn dạng cụ thể nữa.

3. Tiếp cận dễ dàng.

4. Bước chuyển sang nội dung do quảng cáo trả tiền.

5. Ngành kỹ nghệ máy tính mong muốn nội dung trở nên miễn phí.

6. Thế hệ miễn phí.

Đó là lý do tại sao các mô hình tài trợ bằng quảng cáo chiến thắng trong môi trường trực tuyến và là nguyên nhân làm chúng tiếp tục chiến thắng.

Chiến thắng của mô hình phương tiện truyền thống

Chúng ta coi “thông tin truyền thống” bao gồm phát thanh, truyền hình, tạp chí, báo và các trang web. Cách tốt nhất đo lường ảnh hưởng của nó đối với xã hội là thông qua thời gian người ta dành cho nó. Đo theo cách này, ít loại nào có thể sánh được với trò chơi trực tuyến.

Các loại hình thành công nhất:

1. Bán các món đồ ảo

2. Đăng ký thành viên

3. Quảng cáo

4. Bất động sản ảo

5. Hàng lưu niệm.

Sách miễn phí

Cũng giống như mọi thứ áp dụng mô hình miễn phí khác. Sách miễn phí không phải là không gây tranh cãi. Nhưng thị trường cho sách kỹ thuật số - sách nói, ebook và bản tải xuống từ web - đang phát triển nhanh chóng, phần nhiều để thỏa mãn nhu cầu mà sách in không làm được.

Đối với những sách về đề tài kinh doanh, sách miễn phí thường theo mô hình như nhạc miễn phí có tác dụng như tiếp thị cho bài nói chuyện hoặc phiên tư vấn với chi phí cao.

QUI MÔ CỦA NỀN KINH TẾ MIỄN PHÍ

Miễn phí đâu phải là tiền bạc

Bỏ qua việc sử dụng miễn phí như một mẹo tiếp thị, miễn phí bao trùm toàn bộ nền kinh tế. Hãy điểm qua một vài dạng miễn phí: Toàn bộ nội dung và dịch vụ trực tuyến và phi trực tuyến có quảng cáo tài trợ tại Hoa Kỳ ước từ 80 đến 100 tỷ dollar; loại hình một vài khách hàng có trả tiền trợ giá cho khách hàng miễn phí ước khoảng 800 triệu dollar vào 2008; thị trường trò chơi không thường xuyên có giá trị khoảng 3 tỷ dollar; nền kinh tế quà tặng không thể ước lượng giá chính xác... Tóm lại, miễn phí của một nền kinh tế quốc gia không hề nhỏ.

KINH TẾ HỌC MIỄN PHÍ VÀ THẾ GIỚI MIỄN PHÍ

Econ 000

Năm 1838, Antoine Cournot xuất bản quyền Rechers. Trong đó nói rằng, nếu một nhà máy sản xuất đĩa và một công ty khác cũng muốn mở ra nhà máy sản xuất đĩa thì hai công ty này sẽ điều chỉnh sản lượng để giữ giá bán càng cao càng tốt. Quyển sách của ông không được đánh giá cao.

Sau này Bertrand nhận định khác hơn, thay vì hạn chế sản lượng để tăng giá và lợi nhuận, các công ty sẽ giảm giá để tăng thị phần. Bertrand nói: “Trong một thị trường cạnh tranh, giá sẽ giảm xuống bằng với chi phí biên”.

Sau này các nhà kinh tế học mới kết luận rằng: các thị trường thừa thãi có thể dễ dàng tăng sản lượng, giá cả thường xuống bằng chi phí biên.

Nếu qui luật là “giá giảm xuống mức chi phí biên" thì miễn phí không còn là một phương án, nó là điều kết thúc không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, yếu tố quyết định giá cả không phải chỉ là chi phí biên mà là lợi ích biên”.

Độc quyền không còn như xưa nữa

Mô hình của Bertrand chỉ nhắm tới chi phí vật chất. Trong ngành sản xuất phần mềm và nhiều ngành khác nữa, giá trị của sản phẩm hầu hết nằm ở mặt trí tuệ và ngành công nghiệp này hưởng lợi từ cái gọi là “lợi nhuận gia tăng”. Chiến lược bóp chết cạnh tranh không còn hiệu quả như trước nữa, tệ sao chép đã trở nên phổ biến. Ở bất kỳ thị trường nào thì miễn phí luôn là điều hấp dẫn, nhưng kiếm được tiền từ miễn phí là vấn đề của tư duy, sáng tạo và thử nghiệm liên tục.

Miễn phí chỉ là một phiên bản khác

Ý tưởng cơ bản đằng sau việc tạo ra các phiên bản là bán sản phẩm giống nhau cho khách hàng khác nhau ở các mức giá khác nhau. Vào giờ vàng, người ta bán bia với giá rẻ hy vọng rằng một số khách hàng sẽ ngồi lại và tiếp tục uống khi bia được bán với giá bình thường.

Những kẻ bám càng không còn là mối bận tâm

Nếu hỏi liệu Wikipedia có sống sót được không? Người ta sẽ trả lời: “Không được, vì không có lợi nhuận. Ai cũng muốn hưởng mà không phải đóng góp. Họ sẽ dùng nếu nó có, những sẽ không ai tạo ra nó bởi vì vấn đề bám càng (xài chùa)”.

Trong môi trường trực tuyến, chỉ cần 1% người tham gia đóng góp, số đông người tiêu dùng thụ động chính là phần thưởng cho những người đóng góp, chứ không còn là vấn nạn. Số lượng độc giả khổng lồ là một trong những điều có sức thuyết phục nhất để một người quyết định trở thành biên tập viên cho Wikipedia.

CÁC KHU VỰC KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG

“Mọi sự thừa thãi đều tạo ra một khan hiếm mới”. Chúng ta có khuynh hướng coi trọng những thứ chúng ta không thật dồi dào. Nhưng khát vọng của loài người sẽ ra sao nếu có thật nhiều bánh mì và dạ dày của hắn luôn được chèn chặt? Câu trả lời là “lập tức các nhu cầu khác (cao hơn) xuất hiện và chúng chế ngự cơ thể thay cho những cơn đói sinh lý”.

Một khi nỗi khát khao thông tin và giải trí cơ bản đã được thỏa mãn, người tiêu dùng thụ động biến thành người sản xuất chủ động.

Trong môi trường trực tuyến, sản phẩm được mã hóa thành phần mềm, mời gọi sử dụng miễn phí thì tiền bạc không còn là tín hiệu quan trọng nhất nữa. Thay vào đó, hai yếu tố phi tiền tệ nổi lên thế chỗ là “nền kinh tế của sự quan tâm” và “nền kinh tế của danh tiếng”. Điều gì định nghĩa một “nền kinh tế”? Khái niệm dùng hiện nay là “khoa học về lựa chọn trong điều kiện khan hiếm”.

Ngày nay khi bạn kết nối với ai đó qua blog của mình thực tế bạn đã cho họ một ít danh tiếng của mình, sự chuyển giao danh tiếng này làm hai bên giàu có hơn. Có một thị trường danh tiếng thực sự - đó là Google. Đơn vị tiền tệ của danh tiếng trên môi trường trực tuyến chính là số lượng kết nối đến trang web. Và còn gì đo lường mức độ quan tâm tốt hơn là chỉ số về độ tấp nập của web?

Nền kinh tế quà tặng

Kinh tế quà tặng trở nên sống động và có thể đo đếm được khi nó xuất hiện trên môi trường trực tuyến dưới hình thức các hành vi, điều ta làm cho người khác mà không yêu cầu được đền đáp. Nguyên nhân không hẳn do bản tính vị tha. Lòng vị kỷ được thấu triệt là động lực mạnh mẽ nhất của nhân loại. Người ta làm việc miễn phí có thể vì nhiều lý do: cho vui, có điều gì đó cần thể hiện, muốn được người khác quan tâm, để phát triển cá nhân, vì cộng đồng. Nghĩa là khi người ta cảm thấy là một phần của cộng đồng và muốn cống hiến cho sự tồn tại và phát triển của nó.

(ĐÔI KHI) LÃNG PHÍ LÀ HAY

Khi tự nhiên phung phí sự sống

Bộ não chúng ta dường như được lập trình để cưỡng lại lãng phí. Chúng ta quan tâm bảo vệ từng hậu duệ của mình, chúng ta áy náy với một món đồ chơi không thích hoặc thức ăn không dùng hết.

Tuy nhiên, phần còn lại của tự nhiên không như vậy. Một con cá ngừ đại dương có thể phát tán mười triệu trứng đã thụ tinh trong mùa đẻ trứng, có lẽ chỉ mười con sống đến lúc trưởng thành. Một triệu con chết mới có một con sống. Thiên nhiên phí phạm sự sống để có cuộc sống tốt hơn. Nguyên nhân tự nhiên lãng phí như vậy là vì chiến lược tàn sát là cách tốt nhất để làm điều mà các nhà toán học gọi là “khảo sát toàn bộ không gian tiềm năng”. Đó là cách chấp nhận lãng phí. Vứt đi quá nhiều có vẻ không hay, thậm chí quái lạ, nhưng đó là cách thích hợp để tận dụng sự thừa thãi.

Video về mèo cũng có chỗ của nó

Người ta thường kêu ca rằng Youtube không phải là mối đe dọa đối với truyền hình vì trên đó toàn những thứ “rác rưởi”. Rác rưởi hay không là trong con mắt của người xem. Tất cả các đoạn phim ngẫu nhiên trên Youtube chính là các hạt của hoa bồ công anh bay trong không gian và tìm kiếm một mảnh đất màu mỡ để đáp xuống. Theo cách nhìn đó, chúng ta đang “phung phí video” để tìm ra đoạn video tốt hơn, khám phá cái không gian tiềm tàng trong phim ảnh. Điều này dẫn đến sự khác biệt giữa lối tư duy về thừa thãi và khan hiếm.

Quản lý sự khan hiếm

Mô hình Youtube là hoàn toàn miễn phí, nhưng nó không làm ra tiền. Huhu thì cho xem miễn phí và bạn phải trả giá theo cách cổ điển khi xem các đoạn quảng cáo, dù bạn muốn hay không. Tuy nhiên, nó lại tạo ra doanh thu khá. Hai trường hợp này minh họa sự đối đầu giữa các mô hình miễn phí thực sự trăm phần trăm, nhưng chút khan hiếm giả tạo lại là cách làm ra tiền tốt nhất.

THẾ GIỚI MIỄN PHÍ

Trung Quốc là chốn miễn phí tung hoành

Trung Quốc là nơi vấn đề vi phạm tác quyền thắng thế. Hàng năm qua, các cuộc truy quét thiếu nhiệt tình dưới sức ép ngoại giao của phương Tây không có một ảnh hưởng nào rõ rệt đối với những người bán hàng trên phố hay một số trang web. Ở Trung Quốc, bạn có thể có được hầu hết những thứ mình muốn mà chẳng mất tiền.

Thay vì chống lại nạn vi phạm tác quyền, thế hệ nhạc sĩ mới của Trung Quốc chấp nhận nó, vi phạm tác quyền là hình thức tiếp thị miễn phí, nhờ nó mà họ nổi tiếng và họ chuyển sự nổi tiếng thành tiền thế nào tùy ý. Sản phẩm vi phạm tác quyền ước tính chiếm đến 95% mức tiêu thụ ở Trung Quốc.

Nền kinh tế của nước hoa Chanel nhái

Hàng nhái và vô số đồ công nghệ giả liệu nhan nhản trong các cửa hàng, đường phố Trung Quốc. Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ được miễn phí, bạn chỉ phải trả tiền (rất rẻ) cho các nguyên tử vật chất. Gốc rễ và hậu quả của việc vi phạm tác quyền lại sâu sắc hơn vẻ bề ngoài. Cái túi Gucci nhái vẫn thể hiện như một túi Gucci thật và nó hiện diện khắp nơi. Hệ quả có hai mặt: “tác động thay thế” - tiêu cực và “tác động kích thích” - tích cực. Người tiêu dùng hiểu rõ sự khác biệt giữa hàng thật và hàng nhái, và sẽ chọn hàng thật khi họ đủ tiền. Một phụ nữ trẻ nhận định: “Nếu bạn mặc thật nhiều hàng nhái hoặc có nhiều túi xách hàng giả, những người bạn của bạn sẽ biết, do đó bạn chẳng lừa được ai cả. Thế thì mua hàng thật còn hơn”.

Vi phạm tác quyền không hủy diệt thị trường, nó kích thích thị trường bùng nổ phục vụ làn sóng người tiêu dùng trung lưu đang xuất hiện. Hai sản phẩm, thật và giả, đơn giản là nhằm vào các phân khúc thị trường khác nhau.

Quyền lực của những người bán rong Brazil

Giống như ở Trung Quốc, trên các đường phố Brazil, những người bán hàng rong giới thiệu những đĩa CD không phải là hàng chính thức của một hãng đĩa nổi tiếng nào mà là những sản phẩm do nhóm họ sản xuất, tuy nhiên, lại hợp pháp.

Khi có buổi biểu diễn của một ca sĩ hoặc ban nhạc nổi tiếng nào đó đến địa phương, thì những người bán hàng rong là nhóm tiền trạm, tiếp thị, tổ chức, quảng cáo đầu tiên. Họ ghi hình, sản xuất đĩa CD, DVD bán ngay tại chỗ. Chín mươi phần trăm số ban nhạc không có hợp đồng ghi âm và cũng không đầu quân cho nhãn đĩa nào cả, họ không cần điều đó. Cho người khác nhạc của mình miễn phí tạo ra một ngành kinh doanh lớn đến mức mô hình thu phí không thể nào đạt được.

HÌNH DUNG VỀ THỪA THÃI

Mọi tác giả tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đều biết luật bất thành văn: bạn chỉ có thể phá vỡ những định luật vật lý một hoặc hai lần trong mỗi câu chuyện. Triết thuyết khoa học viễn tưởng là thứ mà nhà văn Clive Thompson gọi là “cứ điểm cuối cùng của triết lý”. Tình yêu sẽ thay đổi ra sao nếu chúng ta sống đến 500 tuổi? Nếu chúng ta có thể du hành trở về quá khứ để đảo ngược những quyết định trước đây, bạn có làm không? Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn đối đầu nói chuyện hoặc giết chết Thượng đế? Khi máy móc làm hết mọi việc, điều gì là động lực của chúng ta? Khan hiếm khi kết thúc sẽ làm chúng ta lười nhác, suy đồi, ngu ngốc và tầm thường.

Tôn giáo là lĩnh vực có những ví dụ vĩ đại nhất về các tình thế cực đoan do thừa thãi hoặc khan hiếm tạo ra. Thiên đường là hình ảnh tuyệt vời về thừa thãi: Thiên thần lướt trên những đám mây mịn màng, chơi đàn hạc và không màng đến nhu cầu về vật chất; người chết trở nên thanh khiết, huy hoàng và hoàn hảo; mọi khiếm khuyết về cơ thể được rũ bỏ… Phải chăng kết cuộc không thể tránh khỏi là khi khan hiếm biến mất thì động lực cũng bị triệt tiêu?

Về mặt kinh tế, thừa thãi là động lực cho đổi mới và tăng trưởng. Nhưng về mặt tâm lý, khan hiếm chính là thứ chúng ta thực sự thấu hiểu.

TIỀN NÀO CỦA NẤY

Những nghi ngờ về miễn phí

Mười bốn điều phản bác lại kinh tế dựa trên miễn phí thường nghe nhất:

1. Làm gì có bữa trưa miễn phí: Quan niệm này khẳng định một cá nhân hay một xã hội không thể nhận được thứ gì đó mà không phải trả tiền. Kinh tế học ít nhất ở dạng lý tưởng, tuân theo qui luật bảo toàn vật chất: có vào thì phải có ra.

2. Miễn phí luôn đi kèm với những chi phí ẩn/miễn phí là một trò lừa đảo. Miễn phí đôi khi có ràng buộc. Hình ảnh quảng cáo làm trong web trở nên bừa bộn, chúng ta bị mồi chài rồi trở thành khách hàng trả tiền. Thực tế: Miễn phí của thế kỷ XXI cũng tốt như thu phí, hoặc tốt hơn nữa: không lừa, không bẫy, không ràng buộc.

3. Internet không thực sự là miễn phí vì bạn phải trả phí truy cập. Đây là một nhầm lẫn phổ biến. Hàng tháng chúng ta phải trả một món tiền để truy cập internet. Thực tế, số tiền này trả cho hạ tầng truyền dẫn, nó chẳng liên quan gì đến những thứ được truyền đi trên hạ tầng đó.

4. Miễn phí chỉ là trò quảng cáo. Thực tế: Thị trường phần mềm dùng thử miễn phí và trả phí để dùng phiên bản hoàn chỉnh đã tồn tại hàng thập kỷ, không dựa vào quảng cáo.

5. Miễn phí nghĩa là phải chịu quảng cáo nhiều hơn, cũng có nghĩa là tính riêng tư giảm xuống. Thực tế, hầu hết các trang web do quảng cáo dẫn dắt đều có chính sách đảm bảo sự riêng tư, ngăn cấm chuyển thông tin về người sử dụng cho người đăng quảng cáo.

6. Không chi phí = vô giá trị. Người ta cho rằng tiền là cách duy nhất đo lường giá trị. Nhưng người ta dựng trang web chủ yếu dựa trên hai đơn vị phi tiền tệ là sự quan tâm và danh tiếng. Cả hai có được là nhờ các nội dung và dịch vụ miễn phí.

7. Miễn phí hủy hoại cách tân. Người ta cho rằng miễn phí vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, nên người ta sẽ chẳng muốn sáng tạo nếu chẳng được gì. Giai đoạn bảo hộ sáng chế kéo dài 17 năm. Nhưng khi thời kỳ bảo hộ đã qua, sản phẩm trí tuệ đó trở thành thứ miễn phí.

8. Đại dương cạn kiệt, nhà vệ sinh công cộng tởm lợm và trái đất nóng lên là cái giá thực sự của miễn phí. Trong thế giới của các bit thông tin, chi phí môi trường còn lâu mới là vấn đề quan trọng. Hoang phí về năng lượng xử lý, lưu trữ và băng thông về cơ bản sẽ qui về chi phí điện năng. Nhưng cuối cùng họ đã đặt các trung tâm dữ liệu gần nguồn năng lượng mặt trời, phong điện và địa nhiệt năng để đảm bảo không gây hậu quả môi trường như các nguyên tử vật chất phí phạm.

9. Miễn phí sẽ khuyến khích chuyện vi phạm bản quyền. Ngược lại, chính vi phạm bản quyền thúc đẩy miễn phí.

10. Miễn phí nuôi dưỡng một thế hệ không trân trọng bất cứ điều gì. Thực tế, giới trẻ có thể phân biệt được giữa thực và ảo, và chúng ứng xử khác biệt phù hợp trong từng hoàn cảnh.

11. Không thể địch lại miễn phí. Thực tế, chúng ta có thể dễ dàng cạnh tranh với miễn phí, đơn giản là đưa ra được sản phẩm tốt hơn hay chí ít là khác biệt so với phiên bản miễn phí.

12. Cho không sản phẩm của mình mà chẳng kiếm được tiền. Trường hợp Paulo Coelho, ông đưa tác phẩm nổi tiếng của mình lên dịch vụ trao đổi tập tin ngang hàng miễn phí như Bit Torrent. Nhờ vậy ông bán được rất nhiều sách .

13. Miễn phí chỉ tuyệt diệu nếu có ai đó đang trả tiền. Thực tế, người khác trả tiền, nhưng họ trả tiền cho phiên bản cao cấp so với phiên bản bạn nhận được miễn phí.

14. Miễn phí hy sinh chất lượng. Nếu nhà báo chuyên nghiệp chứng kiến công việc của mình biến mất thì họ phải sáng tạo lại chính mình một cách mạnh mẽ hơn, từ đó có thể xuất hiện nhiều nhà báo hơn chứ không phải ít đi vì khả năng tham gia làm báo đã mở rộng ra ngoài. Báo chí chuyên nghiệp sẽ chia sẻ sân chơi với loại hình báo chí như thú tiêu khiển.

KẾT

Năm 2001, thị trường chứng khoán sụp đổ. Một vài năm sau thị trường hồi phục và chúng ta nhìn lại, chúng ta ngạc nhiên phát hiện rằng trên thực tế không thể tìm thấy ảnh hưởng của sự sụp đổ ấy đối với sự phát triển của internet, nó còn vẫn tiếp tục vươn rộng giống hệt trước đây. Web vẫn có tầm quan trọng như dự báo của những người lạc quan nhất. Chỉ có điều nó mất nhiều thời gian hơn để đạt được tới tầm vóc mà thị trường chứng khoán tính toán. Từ góc nhìn của người tiêu dùng, miễn phí hấp dẫn hơn nhiều trong một nền kinh tế đi xuống.

Miễn phí vẫn có tác động lên tâm lý người dùng. Nhưng miễn phí không thôi chưa đủ. Nó cần phải được song hành với “trả tiền”. Tương tự như con dao cạo miễn phí của King Gillette chỉ có nghĩa kinh tế khi đi cùng với lưỡi dao đắt tiền. Các nhà kinh doanh trên web ngày nay cũng phải tạo ra không chỉ sản phẩm người ta ưa chuộng mà còn có cả sản phẩm người ta sẽ trả tiền để mua. Miễn phí có thể là mức giá tốt nhất, nhưng nó không thể là mức giá duy nhất.


Nguồn: baotintuc.vn

Xem thêm bài viết về Hàng không